Chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật hôn nhân và gia đình mới

534

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 sẽ chính thức phát sinh hiệu lực từ ngày 1/1/2015, Luật có nhiều điểm mới so với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 trong đó có quy định mới về chế độ tài sản của vợ chồng khi kết hôn.

1.Chế độ tài sản của vợ chồng khi kết hôn

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Luật HNGĐ 2000) quy định chưa rõ ràng về chế độ sở hữu của vợ chồng, thiếu cơ chế công khai minh bạch về tài sản chung, tài sản riêng.

Luật  hiện hành chủ yếu đề cập đến vấn đề bất động sản, đất đai, còn các tài sản khác như chứng khoán, tài sản trong doanh nghiệp như cổ phần, cổ phiếu thì chưa được đề cập tới, gây khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp tài sản vợ chồng khi ly hôn.

Vì vậy, Luật HNGĐ 2014 quy định cụ thể như sau: 

Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận.

Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.

Luật cũng quy định vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản sau khi kết hôn.

Quy định này sẽ làm giảm thiểu sự tranh chấp tài sản khi ly hôn giữa các cặp vợ chồng.

2. Bên cạnh đó, luật Hôn nhân gia đình mới còn có một số quy định mới như sau:

2.1. Luật cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Việc mang thai hộ chỉ được áp dụng khi có đầy đủ các điều kiện về cả người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ. Đặc biệt là người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ. Quy định này sẽ làm hạn chế rất nhiều trường hợp không tìm được người mang thai hộ.

2.2. Luật HNGĐ 2014 quy định tại khoản 2 Điều 8, không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính, tuy nhiên, Luật bỏ quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính”, vì vậy, theo những quy định này thì những người đồng giới tính vẫn có thể kết hôn tuy nhiên sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp về con cái, tài sản. Đây được coi là một bước tiến nhỏ trong bối cảnh còn nhiều ý kiến chưa thống nhất về hôn nhân đồng giới hiện nay.

2.3. Luật quy định thêm đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn, Luật mới cũng bổ sung thêm các đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn.

Cụ thể là thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn như trước đây thì khi luật có hiệu lực (1/1/2015), cha, mẹ, người thân thích khác cũng có thể yêu cầu giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

Luật cũng quy định chồng không có quyền ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

2.4. Bên cạnh đó, luật có một số điểm mới nữa như quy định về nâng độ tuổi kết hôn và áp dụng tập quán trong hôn nhân và gia đình.

Quý vị có thể tải Luật HNGĐ 2014 tại đây:

LUAT HNGD 2014