Câu hỏi: Khu vực tôi ở đang làm đường nên anh X có rủ bố tôi mua xe tải chạy thải cho công ty xây dựng Y với giá là 100.000/chuyến (giao dịch miệng). Bố tôi đã mua xe và chạy cho Công ty Y từ ngày 01/01/2018 đến 28/02/2018 với tổng số chuyến là 950 chuyến. Công ty Y đã thanh toán tất cả số tiền 95.000.000 cho anh X vì anh X là người kí kết hợp đồng với Công ty Y nhưng anh X lại không thanh toán số tiền đó cho bố tôi mà anh ta lại yêu cầu thanh toán với giá 80.000/ chuyến. Bố tôi không đồng ý và đã nhờ công an xã can thiệp giải quyết. Nhưng xã lại không giải quyết được. Vậy nếu gia đình tôi muốn kiện anh Y với tội danh lừa đảo thì có lấy lại được số tiền trên không? Xe của bố tôi chạy có thống kê của công ty Y.
Luật sư tư vấn:
Công ty Luật TNHH SB LAW cảm ơn bạn đã quan tâm đến dịch vụ tư vấn pháp luật của chúng tôi. Liên quan đến thắc mắc của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau:
Điều 174 Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:
“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản đó. Như vậy để xem xét hành vi của X có cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không thì phải xem xét đến yếu tố là X đã dùng thủ đoạn gian dối nhằm làm cho bố bạn tin tưởng X sẽ trả cho mình số tiền như X đã cam kết là 100.000đ/chuyến để mua xe cùng với X. Ngoài ra thủ đoạn gian dối của X phải có trước khi có việc giao tài sản giữa bố bạn với người này thì mới là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu thủ đoạn gian dối lại có sau khi Xnhận được tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Nếu hành vi của X không cấu thành tội lừa đảo chiếm tài sản theo Bộ Luật hình sự thì sẽ giải quyết theo dân sự.
Việc anh X có thỏa thuận với bố bạn là dùng xe của bố bạn mua để tiến hành vận chuyển cho công ty Y. Như vậy, về bản chất hợp đồng giao kết giữa bố bạn và anh X là hợp đồng dịch vụ:
Điều 513 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“Điều 513. Hợp đồng dịch vụ
Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ”.
Sau khi bố bạn đã vận chuyển toàn bộ số hàng của công ty Y bao gồm 950 chuyến và công ty đã thanh toán số tiền trên cho anh X thì lúc này X có trách nhiệm trả tiền cho bố bạn theo như thỏa thuận.
Điều 519. Trả tiền dịch vụ
1. Bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ theo thỏa thuận.
2. Khi giao kết hợp đồng, nếu không có thỏa thuận về giá dịch vụ, phương pháp xác định giá dịch vụ và không có bất kỳ chỉ dẫn nào khác về giá dịch vụ thì giá dịch vụ được xác định căn cứ vào giá thị trường của dịch vụ cùng loại tại thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng.
3. Bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ tại địa điểm thực hiện công việc khi hoàn thành dịch vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp dịch vụ được cung ứng không đạt được như thỏa thuận hoặc công việc không được hoàn thành đúng thời hạn thì bên sử dụng dịch vụ có quyền giảm tiền dịch vụ và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Trong trường hợp này mặc dù việc giao kết hợp đồng giữa bố bạn và anh X chỉ bằng miệng nhưng theo Điều 74 Luật Thương mại 2005 thì hợp đồng này vẫn có giá trị pháp lý ràng buộc các bên.
“Điều 74. Hình thức hợp đồng dịch vụ
1. Hợp đồng dịch vụ được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
2. Đối với các loại hợp đồng dịch vụ mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó”.
Trong trường hợp anh X không chịu thực hiện trả tiền theo đúng thỏa thuận thì bố bạn có thể gửi đơn khởi kiện nhờ Tòa án nơi anh X cư trú can thiệp.
Trong chuyên mục đối thoại nóng của bản tin địa ốc 24h, luật sư Nguyễn Thanh Hà đã trao đổi về đất dịch vụ, nguyên nhân giao đất chậm và những giải pháp đặt ra. Mời quý vị đón xem: