Trình tự giải quyết tranh chấp đền bù đất đai

504

Câu hỏi: Tôi là Bình, ở tỉnh X. Xã tôi có trường hợp thực hiện dự án thu hồi đất đối ứng làm đường giao thông nông thôn. Sau khi dự án được phê duyệt và có quyết định thu hồi đất đến các hộ và sau khi thỏa thuận, thống nhất với nhà đầu tư, hộ dân A đã nhận tiền đền bù. Tuy nhiên, 3 ngày sau đó, hộ dân A này lại thay đổi ý kiến và không đồng ý với mức tiền hỗ trợ trên và nói rằng: Nhận tiền tại nhà, lúc say rượu. Xin hỏi quý công ty: Trường hợp này giải quyết như thế nào? Thẩm quyền thuộc về cơ quan nào?

Luật sư tư vấn:

Công ty Luật TNHH SB LAW cảm ơn bạn đã quan tâm đến dịch vụ tư vấn pháp luật của chúng tôi. Liên quan đến thắc mắc của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau:

Theo thông tin bạn cung cấp, hộ dân A không đồng ý với mức tiền hỗ trợ và cho rằng lúc nhận tiền đang trong tình trạng say rượu. Trước hết, trong trường hợp này các bên sẽ tiến hành tự hoà giải theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 như sau:

Điều 202 Hoà giải tranh chấp đất đai 

1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.

2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.

3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.

4. Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã. Biên bản hòa giải được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp.

5. Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác.

Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Nếu các bên hoà giải không thành, sẽ tiến hành làm đơn gửi lên Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để được xem xét và giải quyết. Trường hợp đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:

Căn cứ Điều 203 Luật đất đai năm 2013 thì:

Điều 203 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai 

Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:

1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;

2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:

a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;

b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;

3. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:

a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;

b) Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;

4. Người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai tại khoản 3 Điều này phải ra quyết định giải quyết tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành phải được các bên tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành.

Như vậy, trường hợp có đầy đủ giấy tờ thì một trong hai bên có thể làm đơn khởi kiện gửi lên tòa án nhân dân yêu cầu tòa giải quyết, và khi gửi lên tòa thì mỗi bên trong vụ án sẽ là đương sự. Còn nếu trường hợp không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì sẽ giải quyết theo quy định tại Khoản 2 Điều luật nêu trên.

Vừa qua, một số trường hợp cá nhân, tổ chức có hành vi gièm pha, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng các công cụ mạng xã hội gây xôn xao dư luận lại một lần nữa làm nóng lên câu chuyện về cạnh tranh không lành mạnh. Vậy, pháp luật quy định như thế nào về hành vi cạnh tranh không lành mạnh? Tình hình cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam đang diễn biến ra sao? Tất cả sẽ được luật sư từ SBLAW và chuyên gia từ Cục quản lý cạnh tranh bình luận và làm rõ trong chương trình “Kinh doanh và Pháp luật” phát sóng trên VTV2 với chủ đề: “Cạnh tranh không lành mạnh”. Sau đây là đoạn video liên quan đến vấn đề này. Mời quý vị đón xem: