Dự thảo Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Dự thảo Luật PPP) phiên bản mới nhất đã thu hẹp lĩnh vực đầu tư, sẽ có một số lĩnh vực không được đầu tư theo phương thức PPP.
Theo đó, có một số lĩnh vực đã được lược bỏ bao gồm: Công trình chiếu sáng công cộng; Văn hoá; Thể thao; Du lịch; Hạ tầng viễn thông; Hạ tầng phục vụ phát triển khoa học và công nghệ; Hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao; Hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.
Nhiều quan điểm cho rằng, thay đổi lần này của Dự thảo sẽ “tước” mất cơ hội đầu tư của nhiều doanh nghiệp vào những lĩnh vực quan trọng.
Luật sư Nguyễn Thanh Hà, chủ tịch SBLAW đã dành cho cơ quan báo chí bài trả lời PV về vấn đề này.
Mời các bạn xem nội dung tại đây:
1/ Hiện tại, vẫn còn những tranh cãi xung quanh việc có nên bỏ những thức đầu tư PPP với những hình thức này hay không? Theo ông, chúng ta có nên bỏ việc đầu tư PPP trong các lĩnh vực này không? Vì sao (Anh lấy ví dụ một trong những lĩnh vực cần đầu tư PPP nhiều nhưng sẽ bị bỏ, nếu bỏ thì tác động thế nào?)
Trả lời:
PPP là một loại hình thức đầu tư hay còn gọi là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với nhà đầu tư để xây dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước và được thanh toán bằng quỹ đất, trụ sở làm việc, tài sản kết cấu hạ tầng hoặc quyền kinh doanh, khai thác công trình, dịch vụ để thực hiện dự án khác. Hình thức này được nhiều nước trên thế giới, kể cả những nước phát triển thực hiện, nên không có lý do gì chúng ta lại bỏ đầu tư PPP.
Ở Việt Nam, hình thức PPP đã được triển khai từ khá lâu và thực tế cho thấy, hàng loạt dự án, công trình kết cấu hạ tầng giao thông, kinh tế, xã hội đã phát huy hiệu quả, làm thay đổi bộ mặt của nhiều địa phương, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm ùn tắc và tai nạn giao thông, thu hút đầu tư, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Luật Đầu tư công (sửa đổi) được trình Quốc hội cho ý kiến vào Kỳ họp thứ 6 tiếp tục quy định hình thức đầu tư PPP nhằm sử dụng tài sản công (đất, trụ sở làm việc, tài sản kết cấu hạ tầng, tài sản công khác) để thanh toán cho nhà đầu tư đây là hình thức.
Ðây là hình thức huy động vốn ổn định và giải quyết về nguồn vốn, đồng thời tiết kiệm ngân sách, giảm áp lực nợ công, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng và tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ của các thành phần kinh tế.
Lấy ví dụ như lĩnh vực hạ tầng viễn thông ở nước ta là một lĩnh vực cần được đầu tư PPP rất nhiều, thường có số lượng dự án đứng đầu tại các thành phố lớn đặc biệt là Hà Nội hoặc tp Hồ Chí Minh. Tổng nhu cầu vốn cho lĩnh vực này lên đến hàng trăm nghìn tỷ đồng, tuy nhiên một thực tế là ngân sách nhà nước khó có thể đáp ứng, khả năng cân đối từ ngân sách nhà nước thường chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu hoặc thấp hơn. Như vậy, nếu bỏ đầu tư PPP, chắc chắn Nhà nước sẽ không thể đáp ứng được nguồn vốn lớn để xây dựng và hoàn thiện hạ tầng viễn thông trên cả nước.
2/ Dự thảo Luật PPP, dự án được áp dụng cơ chế chia sẻ rủi ro doanh thu phải là dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ. Vậy với các dự án khác thì sao thưa ông, chúng ta có nên duy trì cơ chế chia sẻ rủi ro cho các dự án này không, thưa ông?
Trả lời:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 76 Dự thảo Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP), các dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, sau khi đã thực hiện đầy đủ các biện pháp như điều chỉnh mức giá, phí sản phẩm, dịch vụ hoặc điều chỉnh thời hạn hợp đồng PPP nhưng chưa bảo đảm được mức doanh thu cần thiết để duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh của dự án thì sẽ được Chính phủ xem xét, quyết định áp dụng cơ chế chia sẻ rủi ro về doanh thu trong khả năng cân đối nguồn lực.
Cơ chế chia sẻ rủi ro này không áp dụng đối với các dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.
Cụ thể: Chính phủ cam kết chia sể với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án không quá 50% phần hụt thu giữa doanh thu thực tế và doanh thu cam kết tại hợp đồng. Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án cam kết chia sẻ với Chính phủ không thấp hơn 50% phần tăng thu giữa doanh thu thực tế và doanh thu cam kết tai hợp đồng.
Khi Chính phủ quyết định áp dụng cơ chế chia sẻ rủi ro này cũng đồng nghĩa với việc Nhà nước chấp nhận chịu nhiều rủi ro thương mại hơn.
Theo số liệu báo cáo của Chính phủ, tính đến đầu năm 2019, có 336 dự án PPP đã ký kết hợp đồng, trong đó 140 dự án áp dụng loại hợp đồng BOT, 188 dự án áp dụng loại hợp đồng BT (xây dựng – chuyển giao) và 8 dự án áp dụng các loại hợp đồng khác. Thông qua đó, huy động được hơn 1,6 triệu tỷ đồng vào đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng quốc gia.
Các công trình, dịch vụ có được từ các dự án PPP đã góp phần tích cực hoàn thiện số lượng, chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng, hạ tầng đô thị, xử lý nước thải, rác thải…, kịp thời giải quyết các nhu cầu bức xúc về dịch vụ công của người dân và nhu cầu cấp bách về cơ sở hạ tầng để phát triển kinh tế – xã hội đất nước, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kích cầu đối với sản xuất trong nước.
Chính phủ chỉ áp dụng với các dự án PPP nêu trên để tránh việc bảo đảm của mình một cách tràn lan, nhằm kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu an toàn công nợ, bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn. Cũng như nâng cao trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên trong thực hiện dự án PPP với vai trò là các đối tác trong hợp đồng PPP.
Tuy nhiên, việc chia sẻ rủi ro của Chính phủ đối với các dự án trên sẽ không phù hợp với quy định tại Luật Quản lý nợ công và có thể tạo tâm lý trông chờ từ phía các nhà đầu tư. Để xử lý các rủi ro liên quan đến cơ chế chia sẻ rủi ro về doanh thu ngay tại dự thảo luật, bảo đảm tính công khai, minh bạch của dự thảo luật, cơ quan soạn thảo nên nghiên cứu, quy định cụ thể hơn về điều kiện, phạm vi, trường hợp áp dụng cơ chế chia sẻ rủi ro đồng thời xây dựng cơ chế đánh giá, theo dõi và quản lý các nghĩa vụ nợ dự phòng, rủi ro tài khóa tiềm ẩn từ các dự án PPP.
3/ Cũng theo Dự thảo, Quốc hội sẽ phê duyệt chủ trương đầu tư dự án sử dụng vốn đầu tư công từ 20.000 tỷ đồng trở lên. Liệu đề xuất này có trói chân các dự án không khi mà có những dự án khác vẫn cần đầu tư theo hình thức PPP?
Trả lời:
Đề xuất này, nếu đi vào thực tế sẽ trói chân nhà đầu tư, khiến nhà đầu tư gặp nhiều khó khăn.
Trong tương lai, tôi tin rằng, những dự án từ 20.000 trở nên sẽ rất nhiều. Chưa kể, 1 năm Quốc hội chỉ họp 2 lần nên doanh nghiệp sẽ mất thêm một khoảng thời gian nữa để chờ đợi việc dự án có được thông qua hay không.
Việc tham gia của Quốc hội là quan trọng, tuy nhiên, tạo ra cơ chế để Chính phủ quyết định và báo cáo Quốc hội, Quốc hội thực hiện chức năng hậu kiểm và giám sát thì sẽ thực tế hơn.
4/ Một trong những tranh cãi lớn nhất của Dự thảo lần này tập trung vào việc giữ hay bỏ hình thức đầu tư BT theo cơ chế đổi đất lấy hạ tầng. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Trả lời:
Đổi đất lấy hạ tầng là phương thức cơ bản trong hợp tác PPP từ trước đến nay. Tuy nhiên, thực tế của hợp tác PPP theo các hình thức BT,… ở nhiều dự án và trên nhiều tỉnh thành, địa phương cả nước, chưa hoàn toàn phát huy được mọi mặt tích cực.
Ở một chiều khác, việc hợp tác phát triển các dự án hạ tầng của toàn dân, với những nhà đầu tư BT được cho là chưa công khai, minh bạch, theo cơ chế “riêng” hoặc theo nhóm lợi ích, quản lý buông lỏng…khiến hiệu quả dự án sau chuyển giao không như kỳ vọng. Trong khi đó, quỹ đất công được dùng để đổi lấy hạ tầng ngày một vơi đi, thất thoát và lãng phí tài sản Nhà nước đã xảy ra…
Trong trường hợp tiếp tục giữ các dự án BT, Bộ KH&ĐT đưa ra 2 phương án lấy ý kiến: Một là đấu thầu dự án BT; hai là thực hiện kết hợp đồng thời đấu giá đất và đấu thầu công trình BT.
Trong trường hợp Bộ Kế hoạch và Đầu tư muốn giữ hình thức BT, thì Bộ phải chứng minh được hai phương án này sẽ làm minh bạch hóa các dự án BT, khiến dự án BT không còn là mảnh đất màu mỡ cho tiêu cực và tham nhũng. Nhưng đây lại không phải là một câu chuyên dễ dàng bởi kể cả có đầu thầu đi chăng nữa, thì việc doanh nghiệp “đi đêm” với chính quyền vẫn là điều có thể xảy ra. Vậy có lý do gì để chúng ta tiếp tục hình thức đổi đất lấy hạ tầng?
5/ Theo tiến trình Dự thảo Luật sẽ được trình Quốc hội và kỳ họp cuối năm 2019. Vậy ông có đóng góp gì để các quy định của dự Luật PPP được hoàn thiện hơn?
Trả lời:
Thứ nhất, để đảm bảo yêu cầu công khai, minh bạch trong triển khai dự án PPP, cần đẩy nhanh ứng dụng đấu thầu qua mạng đối với việc lựa chọn nhà đầu tư. Nhà đầu tư cần nộp hồ sơ dự sơ tuyển (đối với dự án PPP), hồ sơ đăng ký thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất phải được nộp trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia với lộ trình theo hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Thứ hai, đẩy mạnh kiểm tra, giám sát, riêng dự án áp dụng hình thức chỉ định thầu và lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt, định kỳ hàng năm, các bộ, ngành, địa phương chịu trách nhiệm đánh giá kết quả lựa chọn nhà đầu tư trên cơ sở các nội dung về mục tiêu, lý do, điều kiện, tiến độ, phương án thực hiện khi thực hiện tổng kết tình hình công tác đấu thầu.
Thứ ba, để xử lý các rủi ro liên quan đến cơ chế chia sẻ rủi ro về tài chính ngay tại dự thảo Luật, cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu, quy định cụ thể hơn về cơ chế chia sẻ rủi ro, cũng như quy định rõ hơn về cơ chế áp dụng đối với các dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ tư, cần luật hóa cơ chế giám sát để không có những dự án dành cho những người thân hữu với những người quyết định dự án PPP.
Ngoài ra, từ góc độ pháp lý, bởi nền tảng của các dự án PPP chính là các hợp đồng, do đó, quyền tự do thỏa thuận và tính linh hoạt theo bối cảnh các dự án cụ thể cần được tôn trọng và bảo đảm. Trong các hợp đồng này, điều khoản nhạy cảm nhất được các nhà đầu tư tư nhân quan tâm, đồng thời Quốc hội cần xem xét khi ban hành luật, là việc từ bỏ các đặc quyền về chủ quyền, tức quyền miễn trừ bị khởi kiện trước cả trọng tài và tòa án của Việt Nam và nước ngoài của các cơ quan chính phủ.
Cuối cùng, một bức tranh hợp lý và công bằng về PPP đối với nền kinh tế và người dân sẽ không nên chỉ bao gồm các con đường và trạm thu phí mà còn có cả các lĩnh vực khác của kết cấu hạ tầng đa dạng của đất nước.